20 năm đổi mới: Tiền đề tươi sáng cho một giai đoạn phát triển bền vững

Bởi tuhocmoithu


Theo báo cáo giải trình tóm tắt của Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Đình Khiển : Trước đổi mới, nền kinh tế nước ta đang trong thực trạng ngưng trệ và tăng trưởng thấp, sản xuất không đủ cho tiêu dùng, tích góp ; phần nhiều phải dựa vào vay mượn từ bên ngoài … Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI được lưu lại là một bước ngoặt lịch sử dân tộc đổi mới tư duy và đường lối tăng trưởng quốc gia trong thời kỳ mới với nền kinh tế sản phẩm & hàng hóa nhiều thành phần, xóa bỏ chính sách kinh tế tập trung chuyên sâu quan liêu bao cấp .

Qua 20 năm đổi mới tất cả chúng ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng :


Công trình thủy điện Sơn La

Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế, đạt được tốc độ
tăng trưởng nhanh, tăng cường cơ sở vật chất, tạo tiền đề cho giai đoạn phát
triển mới.
Kết thúc kế hoạch 5 năm (1986 – 1990), GDP
tăng bình quân 4,4%/năm. Điều quan trọng là đã chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý
cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới kinh tế – xã
hội và giải phóng sức sản xuất. Trong 5 năm (1991- 1995), nền kinh tế đã khắc
phục được tình trạng trì trệ, suy thoái; tổng sản phẩm trong nước GDP bình quân
hàng năm tăng 8,2%, vượt mức kế hoạch đề ra. Thời kỳ 1996 – 2000, được xác định
là bước quan trọng của phát triển, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước; đã duy trì nhịp độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước GDP bình quân
7%/năm. Năm năm 2001 – 2005, đất nước vượt qua nhiều khó khăn thử thách đạt được
GDP tăng bình quân 7,5%/năm. Đó là những thành tựu rất quan trọng trong việc
thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001 – 2010.
 

Tạo dựng được những tiền đề phát triển kinh tế – xã
hội trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
.

Thứ nhất, cân đối, tích lũy –
tiêu dùng được cải thiện theo hướng giảm dần tỷ lệ tiêu dùng trong cơ cấu tích
lũy – tiêu dùng, tăng khả năng tích lũy để đầu tư phát triển, bảo đảm mục tiêu
vừa cải thiện mức sống của dân cư vừa tăng khả năng tích lũy để công nghiệp
hóa.

Thứ hai, cải thiện một bước
kết cấu hạ tầng giao thông, điện, viễn thông, thủy lợi, thúc đẩy khả năng phát
triển kinh tế và cải thiện đời sống dân cư.

Thứ ba, giáo dục và đạo tạo,
khoa học và công nghệ phát triển khá.

Thứ tư, thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã từng bước được hình thành; khuôn khổ pháp
lý, các cơ chế, chính sách, các chế tài quản lý kinh tế được đổi mới phù hợp,
thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. 

Thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế để phát huy tiềm năng của
từng ngành, từng vùng, từng thành phần kinh tế trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.

Cơ cấu ngành kinh tế đã từng bước vận động và di chuyển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát huy lợi thế so sách trong từng ngành, từng vùng làm tăng hiệu suất cao và chất lượng tăng trưởng. Cơ cấu vùng vận động và di chuyển theo hướng phát huy những lợi thế. Cơ cấu lao động vận động và di chuyển theo hướng giảm tỷ suất lao động trong sản xuất thuần nông, tăng tỷ suất lao động trong những ngành công nghiệp và dịch vụ. Cơ cấu những thành phần kinh tế có sự di dời theo hướng sắp xếp lại và đổi mới khu vực doanh nghiệp Nhà nước .

Thúc đẩy phát triển kinh tế đối ngoại, tăng khả năng hội nhập kinh tế
khu vực và thế giới.

Hoạt động kinh tế đối ngoại đã có bước tăng trưởng can đảm và mạnh mẽ, đưa nước ta nhanh gọn hội nhập với kinh tế khu vực và quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa những mối quan hệ với những nước, những tổ chức triển khai kinh tế tài chính quốc tế .

Giải quyết đáng kể các vấn đề xã hội và xóa đói giảm
nghèo.

Công tác xóa đói giảm nghèo được sự quan tâm của các ngành, các cấp, đã
trở thành phong trào sâu rộng trong quần chúng nhân dân, thực sự giúp các hộ
nghèo đói giảm bớt khó khăn, từng bước tự vươn lên thoát cảnh đói nghèo và hòa
nhập cộng đồng. Tỷ lệ hộ nghèo đến cuối năm 2005 (theo chuẩn nghèo của Việt Nam
giai đoạn 2001 – 2005) giảm xuống còn 7% trên tổ số hộ. Công tác chăm sóc sức
khỏe nhân dân được chú trọng. Hoạt động văn hóa thông tin phát triển đa dạng,
cải thiện đời sống văn hóa của nhân dân. Chính trị – xã hội ổn đinh; an ninh
được củng cố, tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế – xã hội. Hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước được tăng cường một bước. Cải cách hành chính có những
tiến bộ nhất định. Dân chủ xã hội tiếp tục được phát huy. Nhiều vụ tiêu cực, tệ
nạn xã hôi, tội tham nhũng bị phát hiện và xử lý nghiêm… 

Theo báo cáo giải trình của ông Trần Đình Khiển, tiềm năng tổng quát của kế hoạch tăng trưởng kinh tế – xã hội 5 năm 2006 – 2010 là : Đẩy nhanh vận tốc tăng trưởng kinh tế, đạt được chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu suất cao và tính bền vững và kiên cố của sự tăng trưởng, sớm đưa nước ta ra khỏi thực trạng kém tăng trưởng. Cải thiện rõ ràng đời sống vật chất, văn hóa truyền thống và niềm tin của nhân dân. Tạo được nền tảng để tăng cường công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tăng trưởng kinh tế tri thức, đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng tân tiến vào năm 2020. Giữ vững không thay đổi chính trị, bảo đảm an toàn xã hội. Bảo vệ vững chãi độc lập, chủ quyền lãnh thổ, toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ và bảo mật an ninh vương quốc, nâng cao vị thế của Nước Ta trong khu vực và trên trường quốc tế .

Quốc Bình – Văn
Hiệp

You may also like

Để lại bình luận